Thông tin thêm Đảng_Cộng_sản_Trung_Quốc

Đảng kỳ và Đảng huy

Khi Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập tháng 7 năm 1921, bấy giờ chưa có quy định nào về Đảng kỳ. Các tổ chức Đảng tự chế ra hiệu kỳ Đảng mô phỏng theo mẫu gần giống Đảng kỳ của Đảng Cộng sản Nga, nhưng các thông số kỹ thuật không thống nhất. Mãi đến ngày 28 tháng 4 năm 1942, Trung ương Chính trị Cục mới ra quyết định thông qua thông số kĩ thuật của Đảng kỳ "Búa liềm ở vị trí góc trái chiếm 3/2 lá cờ, không có ngôi sao năm cánh" và giao cho Văn phòng Trung ương Đảng chế tạo sản xuất theo thông số cho tất cả các tổ chức của Đảng. Lá cờ sản xuất ở Diên An (Thiểm Tây) được xem là lá cờ tiêu chuẩn đầu tiên.

Sau khi chiến thắng Quốc Dân Đảng thống trị Trung Quốc đại lục vào năm 1949. Tổng cục Chính trị Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã ra một quy định tạm thời về Đảng kỳ. Sau đó ngày 11 tháng 10 năm 1949, Ban Tuyên truyền Trung ương quyết định đồng ý với Tổng cục Chính trị về sự thống nhất quy định tạm thời Đảng kỳ và bắt đầu cho thử dùng.

Ngày 17 tháng 6 năm 1951, Văn phòng Trung ương Đảng đã phê duyệt "Trung ương Đảng chính thức quy định thống nhất hình dạng Đảng kỳ, để sử dụng kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng. Đồng ý sử dụng Hồng kỳ với Búa liềm trên đầu lá cờ". Ban đầu, ý nghĩa của Đảng kỳ được giải thích là lá cờ đỏ thể hiện cho sự cách mạng, búa liềm màu vàng thể hiện cho ánh sáng và công cụ lao động của công nông.

Ngày 21 tháng 9 năm 1996, Trung ương Đảng đã chính thức thiết lập tiêu chuẩn cho Đảng kỳ. Cùng ngày, Văn phòng Trung ương Đảng đã ban hành "Quy định việc chế tác sử dụng Đảng kỳ Đảng huy Đảng Cộng sản Trung Quốc". Ý nghĩa của Đảng kỳ cũng được giải thích như sau: hồng kỳ tượng trưng cho cách mạng, búa liềm vàng đại diện cho người nông dân và công nhân, là đội tiền phong cho giai cấp công nhân lao động. Đảng huy biểu tượng cho sự đại diện quyền lợi nhân dân của Đảng Cộng sản Trung Quốc.[2]

Ngày 14 tháng 11 năm 2002, Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 16 đã thông qua nghị quyết "Điều lệ Đảng Cộng sản Trung Quốc" và có chương XI là chương viết riêng về Đảng kỳ Đảng huy, trong đó Điều 51 quy định Đảng kỳ Đảng Cộng sản Trung Quốc là cờ có biểu tượng búa liềm màu vàng trên nền cờ đỏ và Điều 52 quy định Đảng huy Đảng Cộng sản Trung Quốc quy định Đảng huy là hình búa liềm màu vàng. Điều 53 của Điều lệ Đảng quy định Đảng kỳ và Đảng huy Đảng Cộng sản Trung Quốc là biểu tượng tượng trưng cho quy phạm. Các tổ chức và mỗi cá nhân Đảng viên phải sử dụng Đảng kỳ Đảng huy một cách tôn nghiêm, phù hợp với việc sử dụng Đảng kỳ Đảng huy.[3]

Các lãnh đạo tối cao qua các thời kỳ

Từ 1921 đến 1943, chức danh Tổng bí thư là vị trí cao nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc:

  • Trần Độc Tú năm 1921-1927 (Tại Đại hội I, năm 1921, Trần Độc Tú giữ chức Trung ương thư ký (中央书记); Đại hội II, năm 1922 và Đại hội III, năm 1923 Trần Độc Tú giữ chức Ủy viên trưởng Ban Chấp hành Trung ương. Các chức danh này tương đương với chức danh Tổng bí thư (总书记). Tại Đại hội IV, năm 1925, Trần Độc Tú giữ chức Tổng bí thư)
  • Cù Thu Bạch từ 7/1927 đến 7/1928 và từ tháng 9/1930 đến 1/1931
  • Hướng Trung Phát 1928-1930
  • Lý Lập Tam năm 1929-1930 (Trong thời gian này mặc dù Hướng Trung Phát đang nắm chức vụ Tổng bí thư nhưng Lý Lập Tam giữ chức Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị là người nắm thực quyền lãnh đạo Đảng)
  • Vương Minh (tên thật Trần Thiệu Vũ) năm 1931
  • Bác Cổ (tên thật Tần Bang Hiến) năm 1931-1935
  • Lạc Phủ (tên thật Trương Văn Thiên) năm 1935-1943

Năm 1943, chức danh Chủ tịch đảng được lập ra và là vị trí cao nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc:

Năm 1982, chức danh Chủ tịch đảng bị bãi bỏ, Tổng bí thư là vị trí cao nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc: